expr:class='"loading" + data:blog.mobileClass'>

Tìm kiếm Blog này

Thứ Hai, 20 tháng 11, 2017

NGHĨA THẦY

Lúc 5 tuổi, sau khi anh Khánh tôi mất, mạ (mẹ) bắt đầu cho tôi đi học ở làng. Sau này lớn lên tôi mới biết rằng cha tôi dù xa xôi, vẫn luôn dặn gia đình, bà con, dù hoàn cảnh thế nào, cũng phải cho con cháu được học hành. Học ở làng (coi như lớp vỡ lòng) là tôi vào học lớp của một ông giáo trẻ trong làng tên Khảm. Sau này anh thành rể bên bà o (cô) tôi, là chồng của chị họ tôi tên Thương. Đến nhà tôi gọi anh là eng (anh) Khảm, nhưng đến lớp tôi vòng tay thưa thầy rất đàng hoàng. Thời đó thầy dạy chúng tôi ra đường thấy người lớn phải vòng tay thưa, bởi vậy có khi trên đường đi học, một đám cưới đi ngang áo xanh áo đỏ rầm rộ như trong bài hát của Hoàng Thi Thơ (ông này người làng Bích Khê sát cạnh làng tôi), mà chúng tôi cũng vòng tay chào cho hết đoàn, ê ẩm! Chị họ tôi khi đó mới yêu thầy tôi nên mỗi lần đi ngang lớp học thấy cứ lấy nón che che mặt ra vẻ xấu hổ. Lớp này nhiều học trò lứa tuổi khác nhau, mấy anh con trai ham chơi viết chữ xấu, hay làm đổ mực ra tay, ra bàn, bị thầy lấy thước kẻ vuông khẽ vào mu tay, anh nào nói khó nghe lắm thì quỳ lên vỏ mít, bò trên sân có rải sỏi. Con gái ít bị phạt hơn. Tôi học thuộc lòng từ thầy 23 chữ cái a, bê, xê, dê, đê … đến ix-ờ (x), i-cret (y), việc này có lợi cho tôi suốt cuộc đời là vào tra từ điển rất nhanh. Rồi thầy cho ghép chữ, chứ không học đánh vần kiểu miền Bắc i-tờ tờ i-ti hoặc a, bờ, cờ …
Cũng không nhớ học đến bao lâu thì tôi ngừng học, nhưng nhớ là chưa vô trường tiểu học thì mụ (bà cô) của tôi, người thường dẫn tôi đi chùa bắt tôi chép kinh Phật bằng âm Phạn, mụ đọc sao tôi chép vậy, mà thấy mụ êm hết, nghĩa là tôi không chép sai.
Đến sáu tuổi mạ tôi tính cho tôi đi học trường tiểu học ở xã tôi là xã Triệu Quang (là xã Triệu Long bây giờ), nhưng nghe mạ tôi kể lại là trường xã không nhận, vì ba tôi là một Việt Cộng đầu sỏ, trường sợ bị liên lụy, anh Khánh tôi vốn học trường này, họ muốn đuổi nhưng anh tôi học giỏi và thông minh nên họ tiếc, giữ lại. Sau đó thấy mạ nói thầy Viễn hiệu trưởng trường Tiểu học Hà My (sau khi tôi đi được đổi lại là Tiểu học Cộng đồng Hà My, ngay sau ngày giải phóng Quảng Trị, tôi về thăm lại, thầy trường đổ sập bởi bom đạn, nhưng tấm bảng tên trường còn đó, đổ nghiêng một bên, đề là Trường Tiểu học Cộng Đồng Hà My), xã Triệu Vinh (nay là Triệu Hòa) nhận tôi qua học trường bên ấy. Trường cách xa nhà tôi đâu khoảng bảy cây số. Thầy Viễn là con ông Hào Tấn, một nhà có gia thế trong làng. Thầy đi đến trường bằng xe đạp, một hình ảnh rất oai ở quê tôi thời đó (giống đi ô tô bây giờ vậy). Buổi sáng tôi đi bộ đến trường, dung dẻ cùng một vài bạn học cùng trường. Thấy tôi đi bộ xa tội, mẹ tôi gửi tôi ở lại nhà một bà o, nhưng vài bữa tôi nhớ nhà, không chịu ở, đòi về đi bộ thôi. Thầy Viễn hay chở một thằng (không nhớ tên chi, chỉ hay gọi hắn là thằng Cu) cùng đi học bên Hà My, hắn bà con gần với thầy. Thỉnh thoảng thằng Cu này vì sao đó không đi học hoặc ai đó chở rồi, thì nếu gặp tôi trên đường là thầy bảo tôi leo lên xe thầy chở. Mỗi lần vậy đến trường thấy bọn bạn có vẻ nể mình, nhưng tôi cũng không để ý chuyện này lắm. Trường khi đó hình như được đầu tư trường điểm sao đó, thấy họ viện trợ nhiều bàn ghế mới đánh véc ni, hộp mực không đổ, bút chì vẽ màu vàng có cục gôm… cho học trò. Buổi sáng thứ hai mỗi tuần chào cờ, hát quốc ca “này công dân ơi, quốc gia đến ngày giải phóng …”, nhưng chỉ có mấy anh chị lớp ba trở lên mới được hát, chắc họ sợ tụi nhóc tì chúng tôi hát bậy. 
Học hết lớp Năm (tức lớp Một), cuối năm thấy họ bảo có một số bạn trong lớp được phần thưởng nhưng phải tự nộp mấy quyển vở mới, rồi sau họ sẽ dùng đó làm phần thưởng cho chính bạn đó, tôi lơ ngơ không biết mình có trong danh sách thưởng không, nhưng về bảo mạ mua vở nộp, nộp rồi không thấy mình được thưởng (😊). Qua hè 1964, tôi lên lớp Tư (tức lớp Hai), tình hình chính trị lúc đó hình như rất căng. Trong làng luôn có báo động giả Việt Cộng về để tập dượt dân làng chống Cộng, đồng thời xem thái độ những nhà thân Cộng. Một ngày cuối tháng 10 năm 1964, mẹ tôi bảo tôi ngày mai qua dốc Sỏi ăn cưới chị Đương, con cậu ruột tôi. Tôi thấy lạ vì mẹ tôi đã đi ăn cưới chị vài ngày trước đó, tôi đòi đi, đâu có cho đi? Nhưng sau rồi cũng vui sướng vì sắp được tham dự một sự kiện mà thời đó không mấy khi một đứa con nít như tôi được dự. Không ngờ đó là ngày mẹ bí mật đưa tôi lên chiến khu. Sau đó ba gửi tôi ra miền Bắc, lưu lạc qua các trường Học Sinh miền Nam cho đến mười năm sau mới trở về.
Sau này lớn lên, tôi cứ băn khoăn, vì sao thầy Viễn lại liều mình cho tôi đi học ở trường thầy, trong khi trường xã tôi lo sợ từ chối? Thầy không sợ sao? Tôi cứ tự vấn mãi về chuyện này. Giải phóng, mỗi khi có dịp về quê, dù lúc đó cũng đang còn rất trẻ, nhưng tôi luôn hỏi thăm thầy Khảm và thầy Viễn, người ta nói thầy đi đâu trong Nam, không tin tức gì.
Mãi gần đây tình cờ nói chuyện với một ông anh trong họ tên Võ Cẩm, anh cho tôi hay thầy Viễn còn sống, ở Đà Nẵng, đang bị tai biến nằm một chỗ. Ông cho tôi cả số điện thoại nữa. Tôi giữ vậy và chờ cơ hội đi Đà Nẵng. Thật ra Huế với Đà Nẵng đi có 2h xe chạy, nhưng hoàn cảnh của tôi ra khỏi nhà khá là vấn đề, khi cha ốm nặng nằm một chỗ mấy năm trời rồi. 
Tết rồi con gái học xa về, rủ hắn mẹ con mình đi Đà Nẵng thăm thầy cũ của mẹ, vì chỉ có đi vì một mục đích đó mới thực hiện được, còn nếu kết hợp thì rất khó để tôi để tâm tìm thầy. Vào đến Đà Nẵng, gọi số liên lạc, hóa ra đó là số của con gái thầy. Xin địa chỉ và tìm. Khả năng tìm đường, nhớ đường của mình hay đến nỗi có người từng nói mình thuộc hạng “ngu về đường” (vì họ không dám nói mình ngu toàn tập!). Loanh quanh mãi thì cũng ở trong Đà Nẵng, sau mấy cú chạy lạc, tôi cũng đỗ xe được đúng địa chỉ 172/3 Nguyễn Duy Hiệu. Thẩy cổng nhà thầy khang trang, mừng trong lòng, chắc cuộc đời thầy khá thuận buồm xuôi gió. Có người ra hỏi, tôi nói ở ngoài làng Đâu Kênh vô thăm, người ấy mừng rỡ kêu thầy có người làng vô thăm. Bước vào ngồi chờ, thấy thầy đi nạng ba dùng cho người già sau tai biến. Mái tóc bết lại vì nằm nhiều. Trong ký ức tôi chỉ nhớ dáng người cao ráo của thầy, chơ khuôn mặt thì rất mờ nhạt, có lẽ thời ấy nhỏ chút, nhìn đâu thấu mặt thầy! Chào thầy, tự giới thiệu con trong xóm Triêu, con ông Kim, ngày xưa đi học … bla.. bla, thầy cứ trầm ngâm, hình như không hề nhớ ra điều gì, con bé này là ai. Chặp sau chi xui, tự nhiên nhớ ra cái tên trong xóm hay gọi mạ, chẳng là chị Nguyên, chị đầu của tôi, khi mới đẻ ra đã bị bỏ vô thúng chạy giặc Pháp càn, nên có tên cúng cơm là “con Trốn” (như tên cúng cơm tôi là “con Sâu”), ở quê tôi hay kêu tên con, nên trong xóm kêu mạ tôi là “mụ Trốn” (từ sau khi thoát ly lên chiến khu, không ai còn gọi mạ bằng tên này nữa), tôi nói với thầy “con là con mụ Trốn”, tự nhiên thầy như bừng tỉnh. Thầy nói “con ông Kim”, dạ thì con nói thầy rồi. Rồi thầy nói một câu mà tôi ngỡ ngàng: “ngày xưa tôi là trò của thầy Kim!”, ồ, tôi không hề nghĩ đến tình huống này bao giờ, thỉnh thoảng tôi kể với ba tôi chuyện về thầy Viễn, ba tôi cũng không nói với tôi chuyện này bao giờ. Câu hỏi trong lòng tôi hơn 50 năm đã được hóa giải. Vì nghĩa với thầy (ba tôi) mà ông (thầy Viễn) đã không nề hà việc nhận tôi vào học trường thầy, thậm chí thỉnh thoảng còn chở tôi vắt vẻo sau xe đạp, trong khi cái đầu cha tôi lúc ấy được treo rất cao giải, khiến một số người thường rình rập sau nhà tôi để hòng trúng cơ trời, trong khi phong trào “Tố Cộng, Diệt Cộng” đang lên đến đỉnh điểm. Đó là chưa kể cái đứa tôi, trong làng trong xã không ai không biết, vì khi được đẻ ra đã làm cho cả làng bị bắt lên xã ngồi phơi nắng trên sân xi măng cả tuần để chỉnh huấn về tội che giấu việc cha tôi về để đẻ tôi ra! (đó là lịch sử cái tên “con Sâu” của tôi, “con sâu làm rầu nồi canh”).
Cho đến nay, tôi chưa có cơ hội trở lại Đà Nẵng thăm thầy lần nữa, nhưng lòng tự hứa sẽ trở lại. Cũng nghĩ mình phải viết lại câu chuyện này, mà mãi đên hôm nay, dự mấy ngày lễ hiến chương nhà giáo tại các trường mình từng dạy, đón các học trò cũ đến thăm hỏi, lại ngẫm lại câu chuyện này. Mọi năm dịp này tôi thường đi thăm thầy cô cũ của mình và của con quanh thành phố, nhưng mấy ngày nay xui xẻo bị ngộ độc thức ăn, mệt mỏi, lại bận chăm cha nên không đi ra nhiều, đành ngồi nhà nhắn tin chúc mừng các thầy cô giáo, bạn bè giáo, và ngậm ngùi biên những trầm ngâm của mình về những người thầy trong ký ức. 

Vợ chồng thầy Viễn

Thầy Viễn bây giờ

Về thăm lại trường, lớp sau 51 năm (2015)
Trường Tiểu học Hà My bây giờ, được xây dựng lại tương tự ngày xưa.