expr:class='"loading" + data:blog.mobileClass'>

Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

Ru mẹ

Mạ


Mẹ ốm và nằm ngoan như đứa trẻ
Con ước mẹ lại khoẻ
Để rầy la con cháu như từng ngày
Ngày xưa mẹ ru con cò lả cánh cò bay
Thiếu phụ miền Trung yêu dân ca miền Bắc
Cho con một ký ức tuổi thơ
 Ngăn ngắt những cánh đồng
Mẹ từng như cánh cò mải miết chốn bờ sông
Bấm chân giữa trời nuôi con trong mưa hạ
Cha bôn ba trời xa đâu biết nỗi niềm bão gió
Mẹ một mình xao xác ru con...

Chưa kịp lớn con mẹ đã Bắc Nam biền biệt
Phương trời xa, khắc khoải ngắm cánh cò
Con thèm mẹ, mẹ thèm ru con nhỏ
Mười năm cách trở mong chờ...
Mười năm đủ nhớ
Mười năm đủ quên
Để mẹ lóng ngóng, để con thẹn thò ngày hội ngộ..

À... ơi... giờ mẹ ốm con làm sao ru mẹ
Gọi cánh cò trở lại buổi chiều nay
Cho con ru
Cho nỗi đau dịu vợi tháng ngày
Mẹ ngủ say, con mong mẹ ngủ say
Rồi mẹ khoẻ cho một ngày con vui...

                                     Huế 2005

Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012

Về Quế Lâm


Miền ký ức
Ban chỉ huy liên đội Đồng Tháp Mười năm 1969


Về Quế Lâm tháng 5/2010
Cùng nhau về với ngày xưa
Bốn mươi năm ấy như vừa mới đây
Bạn bè, chú má, cô thầy
Lại âu yếm, lại vui vầy cùng nhau...

Trời Quế Lâm thổn thức
Đất Quế Lâm chông chênh
Đón đàn con nhỏ về miền ấu thơ

Ta như nhỏ lại lối xưa
Bao nhiêu ký ức say sưa tràn về

Con đường quế, nắng tràn trề

Nhà ăn, sân bóng... cơn mê ngàn trùng

Mây ngừng trôi, nắng ngừng trôi
Để miền xưa lại chơi vơi những ngày
Yêu thương lại được đong đầy
Nắm tay nhau nhớ một thời thẳm sâu

Quế Lâm trong ngày mới
Quế Lâm trong ngàn sau

Trường xưa ơi, mãi bạc đầu nhớ nhung...

12/8/2008                            

Q.MF đã ký Quế Lâm

Thứ Bảy, 10 tháng 3, 2012

Những cây bút chì xanh đỏ ở trường HSMN

MF với cô Mỵ tại dịp gặp mặt thầy trò 40 năm HSMN Quế Lâm tại Đà Nẵng


Ngày 14 tháng 11 năm nay, nhân dịp 50 năm ngày thành lập trường HSMN, chúng tôi, những thầy trò đã sống dưới mái trường chung lịch sử ấy, một lần nữa ơn Đảng và Chính phủ, cho chúng tôi được những ngày tràn ngập yêu thương sau 30 năm trời xa cách.  Tôi viết là “đã sống”, thay vì viết là “đã dạy và học”, vì thầy trò chúng tôi đã sống như trong một gia đình có đầy đủ cha, mẹ, anh, chị, em. Tôi xin dâng bài viết này lên các thầy, cô, má - những người không chỉ dạy mà còn nuôi chúng tôi nên người. Những người thầy không gọi chúng tôi là “em” như những học trò thông thường, mà chúng tôi gọi thầy cô má và xưng “con’, xưng“cháu”, và thầy cô má gọi chúng tôi là “cháu”, là “con”. Những người không ngày ngày từ gia đình đem sách vở tới trường để dạy chúng tôi, mà sáng dạy chữ, chiều dạy chơi, tối kể chuyện và ru ngủ, rồi sáng dậy lại chăn từng đứa ra tập thể dục! Đứa nào ăn không hết bát: lo, đứa nào ngồi gác chân lên ghế: mắng, đứa nào đến giờ ngủ trưa không thấy: đi tìm!
Chúng tôi chỉ muốn gặp lại thầy để nắm tay thầy mà hỏi: chúng con đã học hành, nhưng cũng đã hư đốn lắm phải không thầy? Chúng con nghịch ngợm, chúng con đánh lộn, chúng con trốn ngủ trưa, chúng con đùa giỡn suốt ngày nhưng chúng con thầm biết thỉnh thoảng thầy cô má có những giây phút riêng tư rất nhỏ để nhớ về gia đình, nhớ về những đứa con đẻ nơi xa xôi, tận miền Nam hay Thái bình, Hải Phòng, hay Nam Hà, Quảng ninh. Chúng con biết câu khẩu hiệu mà thầy cô má thực hiện như một thiên chức chứ không phải là một nhiệm vụ “Tất cả vì học sinh Miền Nam thân yêu!”, chúng con biết có người đã dành trọn cuộc đời riêng cho HSMN, khi trường giải tán, về lại quê hương sống một mình để rồi thỉnh thoảng lại mong nhớ lũ học trò xưa!
Năm 1966, những ngày đầu tiên tôi trở thành một HSMN, lớp một, trường HSMN số 11, ở khu sơ tán Móng Cái, Quảng Ninh. Thầy chủ nhiệm của lớp lúc ấy là một thầy giáo chỉ khoảng 20 tuổi, tên là Mừng. Tôi mới từ Miền Nam ra, rất bé và hay ốm yếu, một ngày tôi bị sốt rất nặng, không đến lớp được, sau khi dạy trên lớp về, không biết kiếm đâu ra một ly chè đậu, thầy bón cho tôi ăn. Sốt cao, tôi không thể nào nuốt được, thầy kiên nhẫn giỗ tôi: “ Cháu ăn đi rồi thầy cho quà” thầy đưa cho tôi một cây bút chì xanh đỏ mới tinh, tôi nắm cây bút trong tay nhưng vẫn không nuốt được. Thầy một tay bế tôi, một tay bưng ly chè, đưa tôi đến bệnh xá, vừa đi vừa dỗ ăn. Mặc dù bây giờ tôi vẫn chưa biết được thầy đang ở đâu nhưng hình ảnh này đã theo tôi suốt cuộc đời, vì những cử chỉ yêu thương vụng về của thầy đã làm tôi không quá nhớ mẹ khi đau ốm.
Từ lớp hai, chúng tôi có thầy chủ nhiệm mới ở khu sơ tán Đoan Tĩnh: Thầy Trường. Khi ấy tôi học giỏi, nên có một lần thầy đi phố về, thầy nói với cả lớp: Kim Thanh học rất giỏi nên thầy thưởng cho một món quà, nếu các cháu đều học giỏi, thầy sẽ cho quà! Đó là phần thưởng đột xuất chứ không nhân dịp tổng kết gì cả, thầy làm vậy để động viên cả lớp học, và tôi được một cây bút chì xanh đỏ hai đầu (lại bút chì xanh đỏ, nhưng đối với chúng tôi thời ấy, bút chì xanh đỏ là món quà đặc biệt lắm!). Thầy dạy nhiều môn như những thầy cô cấp một khác, nhưng môn gì thầy dạy cũng hay, dường như thầy thổi hồn vào tất cả các bài giảng. Có hai lần thầy giận chúng tôi: Khi còn ở Móng cái, một ngày thầy và má Sáu về trường (trụ sở chung của trường) họp về muộn, chúng tôi mong thầy và má quá, kéo nhau ra ngoài đường cái ô tô chạy đứng chờ, gần chạng vạng tối, chúng tôi hè nhau lấy đá sỏi họ đang làm đường quẹt toé lửa chơi, thầy và má về thấy vậy hốt hoảng, đưa chúng tôi về và sau đó không nói một lời. Chúng tôi len lén leo lên sạp nằm cả lũ.
Lần thứ hai, khi ở  trường Nguyễn Văn Bé, Quế Lâm, Trung Quốc, hàng tuần thầy đưa chúng tôi đi bơi sông ở một khúc sông rất đẹp, một lần mải đùa nghịch quá, chúng tôi bơi quá vùng an toàn. Sau đó, đến ngày đi bơi, chúng tôi đến thập thò nơi cửa phòng thầy, thầy bảo "rắn mặt lắm, thầy không cho đi đâu", đó là hình phạt lớn, vì chúng tôi rất thích được đi bơi!
Tôi từng chứng kiến một lần khóc của cô Mỵ, cô giáo phụ trách lớp khi chúng tôi học lớp ba, cô kéo tôi ra góc vườn trường và khóc nức nở, tôi không hiểu gì, lúc nguôi ngoai, cô nắm tay tôi vuốt ve và nói “Cô buồn thằng Tăng Kim quá, dạo này sao nó không nghe lời cô, quậy phá, học hành sút kém. Nhưng cháu đừng nói gì với chúng nó là cô khóc nhé!” Cô Mỵ lúc ấy cũng trẻ lắm, cô chưa có gia đình, xinh và hiền như tên của cô! Tôi muốn nhắn về các bạn tôi: nếu các bạn biết thầy cô đã từng khóc cho mình như thế!
Còn má Sáu, một hôm bọn con trai trong lớp đánh nhau, can mãi không được, má vừa khóc vừa dập ngửa đầu và tường: “ chúng mày có muốn má chết khô..ô..ng… hả!” Bọn con trai lập tức nín khe, sau đó, bọn con trai rất ít khi đánh nhau.
Tôi không biết có ai thưởng cho họ những phần thưởng nào cho sự nghiệp giáo dục hay không, nhưng những người thầy ở trường HSMN nào của chúng tôi cũng sống với các học trò mình như thế!
                                                          Huế 26 tháng 11 năm 2004

Tản mạn HSMN

     Có một danh từ không có trong từ điển các danh từ tiếng Việt, thường được viết tắt là HSMN; có một hội không cố định trong mạng lưới các hiệp hội ở Việt nam: Hội Học sinh Miền Nam; có một đường dây liên lạc không vô tuyến mà cũng chẳng hữu tuyến, nối liền giữa các miền đất của bản đồ nước Việt hình chữ S: Ban liên lạc HSNM, và có một huyết thống tình cảm thật lạ, ngoài phạm trù sinh học, nó kết nối một mối tình tha thiết và mãnh liệt giữa những con người không có máu mủ ruột rà, chẳng bà con họ hàng, không cùng một quê hương, không cùng môt thế hệ, không cùng một mái trường và không kể gì đã biết nhau rồi hay chưa, hễ nghe xưng là HSMN, thì lập tức mừng tủi, sẵn sàng thương yêu, dìu dắt và giúp đỡ nhau. Ấy là bởi vì 50 năm trước đã có những mái trường mang tên Trường HSMN được hình thành trên đất Bắc, rồi 30 năm qua từ lúc những mái trường này giải tán, lưu lại cho những đứa trẻ đã lớn lên từ đó một ký ức thương nhớ khôn nguôi. Hai mươi năm tồn tại là hai mươi năm xây dựng nên một mối ân tình lạ lùng của Nhân dân miền Bắc đối với con em Miền Nam, của những Thầy, Cô, Má 2 Miền tình nguyện thay thế những người cha, người mẹ của những đứa trẻ xa vắng quê hương. Nó là mối ân tình anh chị em ruột thịt được nảy sinh một cách lạ lùng giữa các học trò qua các thế hệ. 
     Tôi ngồi suy ngẫm những điều này sau mấy ngày đón các thầy cô từ phương Bắc vào tìm thăm các học trò, các con cháu mình qua 9 tỉnh Miền Nam. Trái tim tôi nghẹn ngào khi gặp gỡ lại những cái tên và gương mặt từng vô cùng thân thuộc: Thầy Thu "Cam-mô", thầy Quốc Thái, thầy Vĩnh Thọ, thầy Đình Thu, thầy Có, thầy Nhất Hạnh, thầy Trương Bé, thầy Đề và các thầy của thế hệ các anh chị chúng tôi: Thầy Kính, thầy Đang, Thầy Cơ… Giá gì chúng tôi có thể gặp được thêm và thêm nữa những gương mặt từng nằm trong nỗi thao thức về tuổi thơ đêm đêm này… Một vài năm trước, chúng tôi đã từng hạnh phúc được gặp lại thầy Thịnh, Thầy Chì, Thầy Trịnh… có thầy đã lặng lẽ ra đi về cõi Vĩnh hằng, có thầy vẫn còn đâu đó, tên tuổi vẫn còn đó nhưng biết khi nào mới đi thăm lại được đàn con cháu của mình một thời… Tôi cảm thấu được ánh mắt hạnh phúc của các thầy khi ngắm nhìn những đứa trẻ bé dại ngày xưa, nay trưởng thành và vững vàng ở trên mọi nẻo đường xây dựng của đất nước. Không ngại ngần gì mà không nói rằng đó chính là sản phẩm của các thầy, các thầy đã dạy chúng tững con chữ và từng đức tính, mà những cái đức ấy sao mà lạ, nó cũng như một "gen di truyền": Đã là HSMN, ấy là chất phác, trung thực, trọng nghĩa và dũng cảm. Những đêm tối trời xa xưa ấy, dưới những ngọn đèn leo lét, bọn nhóc ngẩng những khuôn mặt háo hức về phía những câu chuyện thám tử ly kỳ của thầy Quốc Thái, một buổi sáng nọ, sau khi hò hét lũ nhóc tập thể dục xong, thầy hô: "đằng sau … quay!" và" Bình minh là như thế đó!" Cả trung đoàn bọn nhóc lặng đi bàng hoàng trước cái đẹp huy hoàng của ánh sáng bình minh rực rỡ trên bầu trời ở sân vận động của trường Nguyễn Văn Bé. Những tên quậy nhất đám thứ ba của bè lũ nhất quỷ nhì ma… cũng không thể không ngồi yên với những tiết sử đầy hào hứng của thầy Thu "Cam-mô", Các vị anh hùng Xpactacut, Napoleon, đặc biệt là thám tử Cam-mô, đã kêu gọi sự dũng cảm của họ trong suốt chặng đường đời. Những bức họa phong cảnh trữ tình của danh họa Nga Isaac Levitan không phải để đào tạo họ thành các họa sỹ, mà làm họ biết tìm đến cái đẹp trên mọi lối đi của mình, đó là nghệ thuật của thầy giáo trẻ Trương Bé, người mà nay đã là một họa sỹ tài danh của Việt nam, một niềm tự hào của HSMN. Hồi ức không ngăn nổi tôi nhớ về những ai chưa gặp lại, những câu hát ru chúng tôi ngủ ở miền thôn nhỏ Xuân Lan của cô Khánh, khuôn mặt nghìn trùng xa cách còn thương nhớ của thầy chủ nhiệm Đào Xuân Trường, Thầy hiệu trưởng ấm hiền như cha đẻ Nguyễn Đức Tường, những bài ngoại khoá nức nở về Bác Hồ trên xứ sở Quế lâm của thầy Thịnh, người thầy nay đã vắng xa mãi mãi…Những lời quở la đầy yêu thương của má Sáu, thầy Phiên… Khi bước chân vào nghề sư phạm, tôi đã thấm thía cái nghệ thuật đào tạo con người của những người Thầy cao quý này. Ôi sao mà hạnh phúc đến đau đớn vì mình đã có một mái trường như thế, sao mà nhớ thương đến nhức nhối vì mình đã có một mái nhà như thế!! Bạn bè ơi, có còn nhớ những bữa ăn "Tổ ấm" hay không?…Chúng ta đã bên nhau thầy trò, đã ngoan ngoãn, đã nghịch ngợm quậy phá…30 năm qua, ngày xưa khi ở cùng nhau thì chúng ta da diết nhớ về quê hương, nhớ ba, nhớ mẹ, giờ thì chúng ta nhớ về Thầy, Cô, Má và nhớ về nhau… Ước gì gặp nhau để mà hát "Ngày con mới ra miền Bắc, con còn bé tí tiu như là cái hạt tiêu..iu…", "Liên đội thiếu niên Đồng Tháp Mười chúng em, gồm những đứa con đất Thành đồng về đây họp lại, Liên khu Năm, Nam bộ, Đồng tháp, hay Mũi Cà Mau…", "Trường chúng em Trường cấp một Nguyễn Văn Bé, chúng em tuy bé nhưng việc làm không bé đâu, học tập tốt hăng say, siêng năng chúng em làm nhiều việc tốt đáng khen vô cùng…"…

Bức tranh "mùa thu vàng" (Golden Autumn) của Isaak Levitan
Huế 13 tháng Tư năm 2003